This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Saturday, November 1, 2014

BÀI HỌC QUÝ GIÁ TỪ LÁ THƯ CỦA NGƯỜI ÔNG QUÁ CỐ

Ngày 3/9/2012, James K. Flanagan, ở West Long Branch, New Jersey, Mỹ, đột ngột qua đời sau cơn đau tim. Chỉ vài tháng trước khi ra đi, ông đã viết một bức thư gửi cho 5 đứa cháu ngoại. Bức thư được đăng tải trên Huffington Post và đã khiến không ít độc giả xúc động trước những lời khuyên tâm huyết của ông James K. Flanagan dành cho các cháu.


Mr James K. Flanagan
"Đừng bao giờ nói với ai rằng cháu yêu họ khi sự thực không phải thế", ông James viết trong thư gửi cho các cháu chỉ vài tháng trước khi qua đời.

Dưới đây là bức thư của ông James K. Flanaga: Ryan, Conor, Brendan, Charlie và Mary Catherine yêu quý, Rachel (con gái của ông James) cứ giục ông viết cho các cháu vài lời khuyên, về những điều quan trọng mà ông đã học được trong cuộc sống. Ông bắt đầu viết bức thư này vào ngày 8/4/2012, đêm trước sinh nhật lần thứ 72 của ông.

1. Các cháu đều là món quà tuyệt vời mà Chúa ban tặng cho gia đình ta và cho cả thế giới. Hãy luôn nhớ điều đó, đặc biệt là khi những mối ngờ vực và sự chán nản bủa vây các cháu.

2. Đừng sợ hãi... về bất kỳ ai hay bất kỳ điều gì. Hãy theo đuổi những hy vọng và ước mơ dù khó khăn đến đâu, dù chúng có "khác biệt" đến mấy trong mắt người khác. Rất nhiều người không làm những gì mình muốn hay những gì nên làm vì e dè ánh mắt, lời bàn tán của người khác. Hãy nhớ, những người không mang súp gà đến cho cháu khi cháu ốm hay đứng bên cạnh cháu khi cháu gặp khó khăn, thì họ chẳng đáng quan tâm đâu. Hãy tránh xa những kẻ bi quan, những kẻ lắng nghe ước mơ của cháu rồi nói "Ồ, nhưng nếu như...". Chẳng có cái "nếu như" nào cả. Hãy hiện thực hóa nó! Điều tồi tệ nhất trong cuộc sống là quay đầu lại và nói "Lẽ ra tôi nên...". Hãy chấp nhận mạo hiểm và không sợ lỗi lầm.

chiến thắng sợ hãi
3. Ai trên thế giới này cũng chỉ là một người bình thường. Một số người có thể đội mũ miện, (tạm thời) có quyền lực, có tiếng tăm và muốn cháu nghĩ rằng họ ở cấp bậc cao hơn những người khác. Đừng tin họ. Họ cũng có cùng những nỗi sợ hãi, sự nghi ngờ, và hy vọng như cháu; họ cũng ăn uống ngủ nghỉ và đánh rắm như bất kỳ ai.

4. Lập một danh sách cuộc sống với tất cả những việc cháu muốn làm: đi du lịch, học một kỹ năng, học một ngôn ngữ, gặp ai đó đặc biệt. Hãy ghi thật nhiều thứ và mỗi năm làm một vài điều trong danh sách. Đừng nói "Mai tôi sẽ làm" (hay tháng sau, năm sau), đó là con đường chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại trong việc thực hiện kế hoạch. Chẳng có ngày mai, cũng không có "thời điểm thích hợp" để bắt đầu một điều gì đó ngoại trừ ngay bây giờ.

List of life
5. Luyện tập câu tục ngữ Ireland: "Khen ngợi đứa trẻ và nó sẽ tỏa sáng".

6. Tốt bụng và hết lòng giúp đỡ mọi người, đặc biệt là những người yếu đuối, sợ hãi và trẻ em. Ai cũng phải gánh một nỗi đau nào đó, và họ cần lòng trắc ẩn của chúng ta.

7. Đừng gia nhập quân đội hay một tổ chức nào dạy cháu cách giết chóc. Chiến tranh là ma quỷ. Mọi cuộc chiến đều được khởi xướng bởi những người đàn ông lớn tuổi, ép buộc hoặc lừa gạt những thanh niên trẻ để họ thù ghét và giết lẫn nhau. Những người đàn ông lớn tuổi sống sót và họ kết thúc cuộc chiến bằng giấy và bút, cũng giống như cách họ mở màn. Nhiều người vô tội phải chết. Nếu chiến tranh là tốt và cao thượng thì sao những người lãnh đạo đã khởi xướng chiến tranh không ra chiến trường mà chiến đấu?

8. Đọc nhiều sách nhất có thể. Sách là hiện thân của sự thông thái, là nguồn sáng, nguồn cảm hứng tuyệt vời. Sách không cần pin sạc hay kết nối và có thể đi đến bất cứ đâu.

Sách mở ra những chân trời mới
9. Thật thà.

10. Thường xuyên đi du lịch, nhất là khi còn trẻ. Đừng đợi đến khi cháu có "đủ" tiền hay đến khi "đúng dịp". Chẳng bao giờ đến lúc đó đâu.

11. Chọn công việc hay chuyên môn cháu muốn làm. Chắc chắn điều này không dễ dàng, nhưng một công việc phải là một niềm vui. Hãy cẩn thận khi làm việc gì chỉ vì tiền, nó có thể phá hủy tâm hồn cháu.

12. Đừng la hét, vừa không có tác dụng vừa làm tổn thương cả cháu và những người khác. Bất cứ khi nào ta kêu la, ta đều thất bại.

13. Luôn luôn giữ lời hứa với trẻ con. Đừng nói "Bố mẹ sẽ xem xét" khi trong đầu cháu nghĩ là "không". Trẻ con trông đợi sự thật, hãy cho chúng sự thật cùng tình yêu và lòng tốt.

14. Đừng bao giờ nói với ai rằng cháu yêu họ khi sự thực không phải thế.

15. Sống chan hòa với tự nhiên: ra ngoài trời, đến những rừng cây, núi, biển, sa mạc. Điều này rất quan trọng cho tâm hồn cháu.

16. Đến thăm Ai-len. Đó là nơi linh hồn của gia đình chúng ta sinh ra.

17. Ôm những người cháu yêu mến. Nói với họ rằng họ có ý nghĩa như thế nào với cháu, ngay bây giờ, đừng đợi đến khi quá muộn.

18. Biết ơn. Có một câu nói rằng: "Hôm nay là một ngày trong cuộc đời chúng ta, và nó sẽ không bao giờ trở lại".

Hãy ghi nhớ điều này mỗi ngày. Trong điếu văn của ông James K. Flanagan có viết, ông "tự hào khi sống tự do và chiến đấu bền bỉ cho những người yếu. Ông là một tác giả tài năng, một nhà thơ và là một người kể chuyện Ai-len.Tình yêu lớn nhất của ông là dành thời gian ở bên gia đình, nhất là với 5 đứa cháu" Ryan (11 tuổi), Conor (10), Brendan (9), Charles (8) và Mary Catherine (5).
                                                                                                     

                                                                                                         Nguồn: VnExpress

CẬU BÉ 14 TUỔI HIẾN KẾ CHO NƯỚC MỸ


Đây là một dự án vô cùng đáng chú ý của Suvir Mirchandani, cậu học trò 14 tuổi đam mê khoa học tại Mỹ.

:
Mực in đắt hơn cả nước hoa Pháp, cần phải tiết kiệm như giấy.

- Sau khi đo lường lượng mực cho các chữ cái được dùng nhiều nhất bằng cả phần mềm lẫn phương pháp vật lý, Suvir Mirchandani đưa ra kết luận thú vị: đổi font chữ = tiết kiệm tiền.

Để viết ra chữ "e", chữ cái được sử dụng nhiều nhất trong tiếng Anh, ta chỉ cần một lần chạm ngón bàn phím hoặc một chấm mực tí xíu là xong. Nhưng khi chữ "e" cỏn con ấy được in ra hàng triệu lần trên hàng nghìn thứ giấy tờ, văn bản thì sao? Lúc đó mới thấy mực in cần thiết như thế nào.

Điều này nghe có vẻ lạ tai nhưng đây chính là suy nghĩ của một cậu bé 14 tuổi có tên Suvir Mirchandani đến từ thành phố Pittsburgh, Hoa Kỳ nhằm tìm cách giảm chất thải và tiết kiệm cho ngôi trường của mình.

Khi vừa trở thành cậu học trò lớp sáu của trường trung học Dorseyville, Suvir nhận ra rằng tài liệu phát cho học sinh hàng ngày đều nhiều hơn rất nhiều so với hồi tiểu học. Với niềm đam mê đưa khoa học máy tính vào bảo vệ môi trường, Suvir đã tự hỏi làm thế nào để tiết kiệm giấy và mực một cách tối đa.

Dùng giấy tái chế và in hai mặt là những cách tiết kiệm quen thuộc đã được nhắc tới thường xuyên nhưng ít ai để ý tới một nguồn nguyên liệu quan trọng không kém gì giấy, đó chính là mực. "Tính theo thể tích, mực còn đắt gấp đôi nước hoa Pháp", Suvir cười và nói.

Cậu bé nói đúng, mỗi ounce (30 ml) nước hoa Chanel No.5 có giá 38 USD, còn lượng mực in chạy cho máy Hewlett Packard cùng thể tích đó có thể lên tới 75 USD. Cậu liền bắt tay thực hiện một dự án vô cùng ấn tượng mà mới đầu, nó chỉ được đem đi thi triển lãm khoa học ở trường.

Đổi font chữ nào? Tiết kiệm bao nhiêu? 

Dự án được tiến hành bằng cả phần mềm và phương pháp vật lý: - Suvir thu thập tài liệu do giáo viên phát và tập trung vào những chữ cái được sử dụng nhiều nhất trong tiếng Anh: e, t, a, o và r.

- Cậu thống kê tần suất sử dụng của mỗi chữ ấy, thử nghiệm bốn kiểu font khác nhau: Garamond, Times New Roman, Century Gothic và Comic Sans, rồi đo lường lượng mực dùng cho mỗi chữ cái bằng công cụ mang tên APFill® Ink Coverage Software bản thương mại.

- Cậu phóng to chữ cái, in ra, cắt trên giấy bìa rồi cân lên để xác minh kết quả. Với mỗi chữ cái, cậu tiến hành ba lần và ghi lại lượng mực dùng cho mỗi font.

- Từ phân tích này, Suvir phát hiện ra rằng nếu sử dụng Garamond, loại font có nét mảnh mai hơn, trường cậu có thể tiết kiệm được những 24% lượng mực in hàng năm, tương đương với số tiền21.000 USD.

Được sự khích lệ của giáo viên, Suvir lại tìm cách công bố rộng rãi kết quả nghiên cứu của mình và tình cờ biết đến"Journal for Emerging Investigators" (Báo Nhà Nghiên Cứu Trẻ, viết tắt là JEI), một ấn phẩm dành riêng cho công trình nghiên cứu của học sinh cấp hai và cấp ba, thành lập bởi tốt nghiệp sinh trường Đại học Harvard từ năm 2011, có tiêu chuẩn tương tự như tạp chí khoa học.

Tờ báo cho biết trong số gần 200 bài viết nhận được từ năm 2011, dự án của Suvir nổi bật hơn hẳn, không những rõ ràng, đơn giản mà còn phân tích sâu: "Chúng tôi rất đỗi ấn tượng và nhìn ra ngay tiềm năng ứng dụng thực tế từ bài viết của Suvir" nhưng họ cũng đặt ra câu hỏi: "Tiềm năng tiết kiệm thật sự trên thực tế là bao nhiêu?"

Vì lẽ đó, JEI yêu cầu Suvir thực hiện dự án trên quy mô tầm cỡ hơn nữa, đó chính là: chính phủ liên bang.

Với kinh phí dành cho in ấn hàng năm lên tới 1,8 tỉ USD, chính phủ là một thử thách to lớn bội phần so với một dự án khoa học ở trường trung học.

Suvir lặp lại thử nghiệm trên năm trang in mẫu từ trang web tài liệu của Văn phòng In Ấn chính phủ và vẫn tìm ra kết quả tương đồng: đổi font chữ = tiết kiệm tiền. 

Cơ quan Quản trị Dịch vụ chung của Hoa Kỳ (General Services Administration, GSA) ước tính chi phí hàng năm dành cho mực in là 467 triệu USD. Suvir kết luận nếu chính phủ liên bang đổi sang font Garamond, mỗi năm có thể tiết kiệm được gần 30%, tức 136 triệu USD. Nếu chính phủ các bang cũng vào cuộc thì lại có thêm 234 triệu USD nữa được tiết kiệm. 

Liệu chính phủ Hoa Kỳ sẽ thay đổi? 

Gary Somerset, giám đốc PR và truyền thông tại Văn phòng In Ấn chính phủ nhận xét dự án của Suvir "rất đáng chú ý". Nhưng ông chưa có lời hứa hẹn rằng văn phòng sẽ thay đổi kiểu chữ.

Theo lời ông, Văn phòng In Ấn chính phủ đang bảo vệ môi trường bằng cách số hóa nội dung giấy lên trang web: "Năm 1994, chúng tôi in ra 20.000 bản photo mỗi ngày cho hai loại công báo Federal Register (Sổ bộ liên bang) và Congressional Record (Văn bản ghi nhận). Nhưng 20 năm sau, con số này giảm xuống còn 2.500 bản mỗi ngày."

Không những vậy, công báo Federal Register còn được in trên giấy tái chế, đây là việc mà văn phòng đã làm trong suốt hơn nửa thập kỷ qua. Nhằm tiết kiệm mực, liên bang còn áp dụng sáng kiến mang tên "Printwise" đến từ Hiệp hội Dịch vụ Công cộng (General Services Association), có chức năng hướng dẫn các văn phòng thuộc cấp chính phủ đặt font mặc định cho máy tính là Times New Roman, Garamond và Century Gothic để giảm thiểu chi phí in ấn.

Họ hy vọng cách này sẽ giúp chính phủ liên bang tiết kiệm khoảng 30 triệu USD hàng năm. Niềm hy vọng của thiên tài 14 tuổi Suvir đánh giá cao những cố gắng trên. Còn dự án của mình, cậu coi đó là một cách để gây tác động trên phạm vi toàn quốc chứ không riêng gì chính phủ, bởi lẽ: "Người tiêu dùng vẫn đang in ấn tại nhà, chính họ cũng có thể thay đổi cơ mà".

Ở tuổi 14, Suvir hiểu rằng việc thực hiện một dự án khó khăn như thế nào: "Em nhận ra rằng thay đổi hành vi của người khác là điều rất khó khăn, phải nói là khó nhất". Nhưng cậu bé thiên tài vẫn giữ hy vọng: "Em hoàn toàn mong được nhìn thấy một thay đổi thực sự và nguyện cố gắng hết sức có thể để điều đó xảy ra". 

Còn cả một quãng thời gian dài đang chờ đợi phía trước, biết đâu Suvir và những người trẻ giống như cậu có thể giúp thủ đô Washington, giới doanh nghiệp hay thậm chí cả thế giới gỡ rối những vấn đề chính trị và công nghệ đang tồn tại hàng ngày.

Theo CNN

CHÂN DUNG BÀ BILL GATES -


Không phải vô cớ mà người bạn thân của họ – nhà tỉ phú Warren Buffet – đã có nhận xét rất đáng chú ý: “Bill Gates cực kỳ thông minh. Nhưng khi ta nhìn toàn bộ bức tranh chứ không phải một phần riêng biệt nào đó thì Melinda hiển nhiên là vượt xa chồng. Nếu như Melinda không làm việc trong quỹ từ thiện của hai vợ chồng họ thì liệu tôi có trao tiền cho Bill không? Có lẽ không”.




Bà là người có vai trò không thể thay thế trong cuộc đời Bill Gates


Là vợ của người đàn ông giàu nhất thế giới nhưng Melinda không mấy quan tâm đến những cửa hàng thời trang sang trọng, những loại mỹ phẩm đắt tiền hay những tác phẩm nghệ thuật danh giá. Thay vào đó, suốt ngày bà chúi mũi vào những chuyện đại loại như… chu trình sống của con muỗi.

Một người phụ nữ hơi bất thường chăng?

Ngay sau khi cưới nhau, vợ chồng Bill Gates bắt đầu làm từ thiện nhưng làm một cách dè dặt, trong đó có lần tặng máy vi tính xách tay cho các ngôi làng ở khu vực cận Sahara (Phi châu). Nhưng rồi hai người nhận ra người dân lục địa đen cần thức ăn để no bụng và thuốc men để chống lại cái chết hơn là phần mềm Windows xa xỉ.

Thế là họ tậu bao nhiêu là sách về các bệnh lây lan vì ký sinh trùng, về hệ miễn dịch, về cách phòng bệnh… “Bạn không thể nói về chuyện tài trợ cho thuốc chống sốt rét nếu như bạn không hiểu rõ chu trình sống của con muỗi. Làm từ thiện không chỉ đơn giản là ký séc chi tiền”, Melinda nói.

Tại sao lại phải nhọc công đến thế?

Melinda có thể tận hưởng một cuộc sống trong nhung lụa, dành thời gian chăm sóc con cái. “Khi cưới nhau, tôi và Bill định khi về già sẽ chia sẻ tiền bạc với người khác. Lần đầu tiên chúng tôi đến châu Phi là nhân một chuyến đi săn năm 1993.

Chúng tôi không thể nào tận hưởng thiên nhiên hoang dã vì cảnh tượng mọi người đi chân đất, phụ nữ phải vừa bế con vừa xách nước đi hàng cây số và bởi lời mời từ một bộ lạc về việc dự buổi lễ cắt âm vật phụ nữ.

Sau đó về nhà, chúng tôi tìm đọc Báo cáo về phát triển thế giới năm 1993 và không khỏi giật mình. Trẻ con đang chết hàng loạt chỉ vì căn bệnh tiêu chảy và những loại bệnh cơ bản mà trẻ con ở nước chúng tôi đã được tiêm vắc-xin.

Chúng tôi tự thấy mình phải có trách nhiệm tìm hiểu sự thật và càng tìm hiểu, chúng tôi càng thấy không thể chờ vì bệnh tật không đợi chúng tôi. Tôi đi vòng quanh thế giới để xem điều gì đang xảy ra.

Nỗi sợ hãi khi quay về quá khủng khiếp đến độ tôi không dám hy vọng. Nhưng rồi bạn thấy đó, kinh tế đang thay da đổi thịt ở các nước phát triển và tự nó cải thiện mọi chuyện. Điều đó đã vực Bill và tôi dậy”.

“Chúng ta có xem rẻ mạng sống của người Phi châu hơn mạng sống của chúng ta không? Bill và tôi cho rằng không có sinh linh nào mang giá trị hơn hay kém so với sinh linh khác. Chính sự công bằng này là lý do để quỹ từ thiện của chúng tôi hoạt động” / Melinda Gates

Quỹ từ thiện Bill & Melinda Gates (BMGF) bắt đầu hoạt động với quy mô nhỏ vào năm 1997 rồi chính thức khai trương vào năm 2000.

Vợ chồng Gates đã cam kết sẽ trao tặng hết 95% tài sản khổng lồ của mình (hiện ước tính khoảng 46 tỉ USD). Vắc-xin và tạo hệ miễn dịch cho trẻ em là mục tiêu chính của quỹ. Đến nay BMGF đã chi tổng cộng 28,8 tỉ USD.

Hồi đầu năm, BMGF đã tặng cho Liên minh Vắc-xin và miễn dịch toàn cầu (Gavi) 750 triệu USD – một trong những món quà cá nhân lớn nhất lịch sử.

Những lần tài trợ trước đó của vợ chồng Bill Gates đã giúp tiêm phòng viêm gan siêu vi B cho 43 triệu trẻ em, giúp giảm 39% tỷ lệ trẻ em bị sởi… Ngoài ra, BMGF còn chi mạnh cho các dự án khoa học nghiên cứu vắc-xin và thuốc men, trong đó phải kể đến chương trình trị giá 35 triệu USD để thử nghiệm vắc-xin chống sốt rét ở Zambia .

Hẳn nhiều người sẽ ngạc nhiên vì ông bà Gates không dành phần lớn tài sản của mình để lại cho con cái. Hiện họ đang có 3 đứa con nhỏ nhưng Melinda không tỏ ra lo lắng:

“Bất cứ lúc nào gia đình tôi nói tới chuyện tài sản, chúng tôi đều nói đến trách nhiệm phải trao tặng nó cho thế giới. Các con của chúng tôi đã có tài khoản riêng của chúng. Không phải lúc nào chúng muốn mua gì cũng được nấy mà phải đợi đến những dịp như sinh nhật mới được tặng hay đợi cho đến khi chúng tự để dành đủ tiền”.

Hiệp hội Bill & Melinda Gates đã chi bao nhiêu cho ai?

Tính đến đầu năm 2005, tỷ phú này đã cam kết số tiền 28 tỷ USD cho nhiều dự án cứu tế, từ thiện, y tế và giáo dục. Tức ông đã đem cho không đến 38% tổng tài sản của mình. 9,3 tỷ USD là tổng số tiền mà tỷ phú giàu nhất thế giới Bill Gates đã chi cho các công cuộc từ thiện cứu tế và giáo dục thông qua hiệp hội mang họ tên mình thành lập vào năm 2000.


Chúng được chia ra như sau:

Sức khoẻ: 5,5 tỷ USD (gồm chiến lược sức khoẻ toàn cầu, 2,3 tỷ USD; nghiên cứu trị HIV/AIDS, bệnh lao và y tế sinh sản, 1,5 tỷ USD; các bệnh lây lan khác, 1,1 tỷ USD; nghiên cứu phát triển công nghệ y tế toàn cầu, 0,4 tỷ USD; nghiên cứu y tế, chiến dịch y tế toàn cầu…, 0,1 tỷ USD)

Giáo dục: 2,4 tỷ USD
Chương trình xây dựng thư viện toàn cầu: 0,3 tỷ USD
Những dự án đặc biệt khác: 0,6 tỷ USD
Các chương trình từ thiện ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương: 0,6 tỷ USD .

Melinda Gates- quyền lực mà thầm lặng

Có một người phụ nữ giản dị, nhân hậu đã chinh phục được biết bao chính khách, doanh nghiệp. Xuất thân trong một gia đình bình dân Mỹ nhưng nhờ nỗ lực cá nhân và cả nét duyên thầm, người phụ nữ này đã trở thành biểu tượng của quyền lực mềm thế giới.

Năm nay 44 tuổi, Melinda Gates luôn sát cánh cùng người chồng tỷ phú, nhà sáng lập và điều hành Microsoft trong nhiều năm qua, và bản thân bà cũng là chủ tịch quỹ tài trợ lớn nhất thế giới.

Bà là người có vai trò không thể thay thế trong cuộc đời Bill Gates, là một trong những động lực to lớn để Bill Gates lập ra quỹ Bill & Melinda Gates.

Chung sống với Bill Gates đã 14 năm nhưng Melinda luôn có một cuộc sống trầm lặng, ít khi lộ diện trước báo giới. Những cuộc phỏng vấn luôn bị từ chối, thay vào đó là những cuộc trò chuyện mỗi tuần với những người cộng sự. Người ta biết đến Melinda qua những người bạn của bà nhiều hơn.

Mối thâm tình với chiếc máy tính

Trước khi quen biết Bill Gates, nàng thiếu nữ Melinda đã mê tít máy tính. Chính tình yêu này đã thay đổi cuộc đời cô.

Khi Melinda 14 tuổi, cha cô tặng cho con gái yêu chiếc máy tính Apple II. “Tôi đã nịnh cha mẹ đặt vào phòng riêng của mình để tiện học tập nhưng thời gian đầu tôi khoái chơi game hơn”, Melinda nhớ lại.

Không lâu sau, Melinda đã nắm được ngôn ngữ lập trình cơ bản và thường xuyên trao đổi kiến thức với các cậu con trai quanh xóm. Chính việc ham thích trao đổi về máy tính đã khiến cô bé bớt đi những rụt rè tuổi dậy thì, tự tin và hòa đồng hơn hẳn. Chiếc máy tính Apple II năm sau đã được nâng cấp lên thành Apple III. Melinda thường dùng máy tính giúp cha quản lý sổ sách, kế toán.

Gia đình Melinda không giàu có. Bố cô là kỹ sư và mẹ cô là một người nội trợ điển hình. Mặc dù cha mẹ cô có cho thuê một vài gian phòng để phụ thêm nhưng việc lo cho cả 4 chị em Melinda học lên đại học quả thật không hề dễ dàng. Melinda cùng các anh chị em từ nhỏ đã phụ giúp mẹ lau bàn, dọn bếp và cắt cỏ.

Khi Melinda còn đi học, tuy không có quy định thành văn nhưng thành tích học tập luôn được cả gia đình coi trọng. Melinda luôn đặt cho mình những mục tiêu để chinh phục một cách bền bỉ và quyết tâm. Cô giáo dạy môn đại số đã nhận xét “Melinda luôn tìm ra cách học tập hiệu quả nhất!”.

Khi đó, Melinda theo học tại một trường nữ sinh Thiên Chúa giáo, cô ao ước được vào trường Notre Dame. Trong suốt quá trình học, Melinda luôn cố gắng và đã trở thành đại diện phát biểu trong lễ bế giảng.

Nhưng cũng chính Melinda là người đưa ra quyết định từ bỏ trường đại học đặc biệt này vì nơi đây coi “máy tính là sở thích nhất thời, phụ nữ không phù hợp với nghiên cứu công nghệ”.

Sau đó Melinda được nhận vào trường đại học Bắc California .. Trong 5 năm học tại đây, Melinda đã được nhận bằng cử nhân khoa học máy tính và thạc sỹ quản trị kinh doanh.

Ngay trước hôm tiến hành lễ tốt nghiệp, Melinda đã tham gia phỏng vấn vào công ty IBM. Cô nhớ lại “Tôi đã nói với người phỏng vấn là mình sẽ tham gia thi tuyển vào một công ty phần mềm nữa. Bà ấy đã mỉm cười và nói nếu tôi được công ty phần mềm đó chọn, tôi càng có nhiều cơ hội hơn”. Và Melinda đã đến nơi có nhiều cơ hội hơn – Microsoft.

Tình yêu với sếp và khát vọng chung thay đổi thế giới

Năm 1987, Melinda bắt đầu làm việc chính thức tại Microsoft. Cô phụ trách quảng bá phần mềm văn bản.

Ngay từ những ngày đầu tiên, Melinda đã thích không khí làm việc cởi mở, năng động nơi đây. Cô chúi mũi vào công việc mà không thể ngờ rằng chỗ làm việc lý tưởng này lại đem đến cơ hội tình yêu cho mình.

Melinda là người trẻ nhất trong những người được nhận vào Microsoft làm việc đợt đó. Trong 10 người có bằng MBA, cô cũng là người nữ duy nhất. “Những người được tuyển đợt đó rất tài năng.

Tôi đã choáng ngợp khi tiếp xúc với họ và nghĩ họ có thể thay đổi thế giới. Tôi cũng hơi ngạc nhiên vì sao công ty phần mềm nho nhỏ hồi đó lại hấp dẫn họ đến thế!”

Khi đó hai sếp lớn Bill Gates và Steve Ballmer đang bất đồng trong khá nhiều vấn đề, họ thường căng thẳng và quát cả cấp dưới. Nếu như không có cảm tình đặc biệt khi nhìn thấy dáng vẻ thư sinh của Bill, Melinda đã bỏ việc từ lâu.

Sau khi vào công ty được 4 tháng, Melinda đến New York tham dự một triển lãm công nghệ và ngồi cạnh Bill Gates trong một buổi tiệc.

Melinda nhớ lại: “Anh ấy quả thật rất có phong cách, còn hơn trong tưởng tượng của tôi”. Khi Bill được hỏi tại sao để ý Melinda, ông trả lời: “Tôi nghĩ chắc là do vẻ đẹp của cô ấy”.

Mùa thu năm đó, Bill và Melinda gặp lại nhau tại nhà để xe của công ty. Melinda nhớ hôm đó là thứ 7 và mọi người trong công ty vẫn phải đi làm.

Họ nói chuyện một lúc, Bill nhìn đồng hồ và hỏi: “Em có đồng ý hẹn hò với tôi trong vòng hai tuần bắt đầu từ thứ 6 tuần sau không?”

Melinda trả lời: “Từ thứ 6 tuần sau bắt đầu hai tuần hẹn hò? Em thấy không được tự nhiên lắm! Không biết được, đến lúc đó hãy gọi cho em”.

Sau đó, Bill gọi lại báo cho Melinda lịch hoạt động ngày hôm đó, Melinda nhận lời hẹn gặp ông vào buổi tối thứ 6 định mệnh.

Trước khi hai người gặp nhau, Bill đã là một tỉ phú nhưng điều đó không có nghĩa là ông có thể “mua” được tình yêu. “Theo đuổi cô ấy thật vất vả”, Bill than thở. Số là mẹ của Melinda vốn cho rằng chuyện tình cảm của con gái mình với sếp không có gì hay ho cả.

Nhưng Melinda đã đặt ra những giới hạn cho mối quan hệ này, quyết không để ảnh hưởng đến công việc. “Tôi không muốn công khai tình cảm, không bao giờ nói chuyện công việc trong thời gian hẹn hò…”

Dù có công khai chuyện tình cảm với sếp lớn hay không thì bạn bè đồng nghiệp vẫn phải nể Melinda về năng lực làm việc.

Sau 9 năm làm việc bà đã lên chức giám đốc phụ trách các sản phẩm thông tin.

Cấp trên trực tiếp của Melinda lúc đó, bà Patty Stonesifer đã nhận xét: “Nếu tiếp tục ở lại làm việc, Melinda chắc chắn sẽ đứng trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp nhất của Microsoft”.





Tháng 1/1994, Melinda rời khỏi Microsoft, dành toàn bộ tâm huyết cho quỹ từ thiện. Tình cảm hai người dành cho nhau càng trở nên sâu sắc.

Trước đây Bill Gates chưa bao giờ nghĩ đến việc thành lập quỹ tài trợ, dù luật sư và kế toán của ông thường xuyên khuyên ông nên dành thời gian và tiền bạc để chính thức tham gia các hoạt động từ thiện.

Đó cũng là lý do mà báo chí những năm 1990 gọi Bill là “kẻ hà tiện”. Cha của Bill giải thích “Con tôi không muốn đứng ra thành lập quỹ từ thiện vì không muốn sở hữu thêm một công ty nữa”. Ngay từ ngày đầu lập quỹ, Melinda đã quán xuyến công việc quản lý.
Những ngày đầu, Melinda và Bill lập ra dự án tặng cho mỗi phòng học một laptop phục vụ việc giảng dạy nhưng công tác quảng bá đã bị giới truyền thông phê bình gay gắt vì… phô trương và thiếu thực tế.

Khi đi khảo sát các trường học, Melinda nhận ra rằng, chỉ trang bị cơ sở vật chất đơn thuần không giải quyết được những vấn đề giảng dạy, vì thế sau này thúc đẩy phổ cập giáo dục mới là mục tiêu chính của quỹ.

Dưới ảnh hưởng của Melinda, quỹ Bill & Melinda Gates đã mở rộng phạm vi hoạt động của mình trong lĩnh vực phòng chống AIDS, bệnh sốt rét…

Melinda chia sẻ: “Chúng tôi muốn dần dần thiết lập một danh sách cần cứu trợ hợp lý. Tiền chỉ có ích khi mang lại những lợi ích thực sự cho những người cần cứu trợ nhất”.

Bà cũng cho biết, quỹ Bill & Melinda Gates không quyên gửi thẳng tiền cho viện nghiên cứu ung thư Hoa Kỳ mà tập trung cho những dự án và khu vực khẩn thiết hơn.

Bà Gates dùng phương pháp liên kết những nhà bán thuốc và bảo đảm trợ cấp tài chính cho việc nghiên cứu để đổi lấy sự hạ giá thuốc cho những nước nghèo, qua đó tạo đà mới cho ngành y học ngừa bệnh của các nước kém phát triển vốn đã bị chững lại từ những năm 1990.

Và rõ nét nhất là việc sáng lập Công ty Vaccine HIV – là công ty liên kết các nhà nghiên cứu với ngân sách 400 triệu USD.

Trải qua 7 năm hoạt động, dưới sự điều hành của Melinda, quỹ Bill & Melinda Gates đã góp phần cứu sống ít nhất 700.000 người tại các quốc gia nghèo thông qua các khoản đầu tư vào những chương trình vaccine.

Quỹ Bill & Melinda Gates hiện là quỹ từ thiện lớn nhất thế giới, với tài sản lên tới 29,1 tỉ USD và luôn đi đầu trong chiến dịch nâng cao sức khỏe cộng đồng trên quy mô quốc tế. Melinda, Bill Gates và cha của Bill là 3 thành viên điều hành quỹ.

Gần đây, Bill Gates đã chính thức rời khỏi Microsoft để hoàn toàn tập trung cho công việc từ thiện.

Mỗi năm quỹ này nhận được khoảng 6.000 thư xin được trợ giúp ở khắp nơi trên thế giới.

Bill và Melinda sẽ tự mình phê duyệt với tổng số tiền trên 40 triệu USD. Cách làm những công việc ở quỹ của đôi vợ chồng này uyển chuyển và có phần thử thách hơn cả khi điều hành Microsoft.

“Chúng tôi trò chuyện ngay cả lúc cùng chạy bộ với nhau”, Bill cười nói. Trong vòng hai năm trở lại đây Bill Gates đã chạy bộ khá đều đặn và cùng luyện tập trí nhớ một cách thú vị và ý nghĩa.

Hai người cùng thảo luận và nêu ra các phương án hành động cho các dự án tài trợ. Các thông tin này sẽ được cả hai nhẩm nhớ, không ghi lại bằng giấy gì cả và ghi nhớ cho đến khi thông báo lại cho các thành viên quản lý quỹ để thông qua chính thức.

Tháng 6/2006, Warren Buffet đã chuyển giao một phần tài sản trị giá khoảng trên 30 tỉ USD của mình vào việc làm từ thiện, trong đó 83% số tiền được đưa vào Quỹ Bill & Melinda Gates. Khoản hiến tặng này được xem là lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

Vào thời điểm đó, số tiền được quyên này còn lớn hơn gấp đôi số tiền hiện có của quỹ. Đây là lời công nhận đầy thuyết phục đối với khả năng quản lý từ thiện, một lĩnh vực mới mẻ và nhiều thách thức của nhà đầu tư tài chính hàng đầu với hai vợ chồng Bill Gates.

Tin vui này cũng đến khi cả hai người đang chạy bộ. Melinda nhớ lại với một vẻ bồi hồi: “Tôi nhận được điện báo và không tin vào tai mình nữa. Tôi nói với Bill, và thực sự muốn khóc. Chúng tôi đã làm được, chúng tôi đã có niềm tin của mọi người, và chúng tôi có nhiều trách nhiệm hơn nữa”.

Hiện nay, Quỹ từ thiện của hai vợ chồng bà đã thu thập được 37,6 tỉ USD, trong đó, 3,5 tỉ USD là phần góp của nhà tỉ phú Warran Buffet, người đứng đầu công ty Berkshire Hathaway. Sắp tới đây, Warren Buffet dự định chuyển cho quỹ Bill & Melinda Gates thêm 9.000 cổ phiếu nữa với trị giá 41 tỉ USD.

Như vậy, cùng với các khoản lạc quyên và hàng tỉ USD của chính hai vợ chồng Bill Gates, tổng số vốn của quỹ trong vài năm tới sẽ đạt đến con số khổng lồ là 100 tỉ USD.

Cả hai vợ chồng đều sẵn sàng chi tiêu toàn bộ số tiền này vào việc giúp đỡ những người nghèo khổ không chỉ ở nước Mỹ. Đến nay, quỹ đã chi gần 20 tỉ USD cho nhiều hoạt động từ thiện.

Bill Gates thừa nhận rằng vợ ông hiểu biết về con người hơn ông. Khi động chạm đến việc nên chi tiền trong quỹ vào những lĩnh vực gì, bà Melinda bao giờ cũng có những ý tưởng thông minh hơn chồng.

Melinda nói: “Hai vợ chồng chúng tôi đã cùng soạn lập danh mục những hiện tượng bất công nhất trên thế giới. Và chúng tôi lựa ra những hiện tượng mà chúng tôi có thể đấu tranh”.

Trong hoạt động nhân đạo chung của cả hai vợ chồng, vai trò của bà Melinda dường như nổi bật hơn.

Không phải vô cớ mà người bạn thân của họ – nhà tỉ phú Warren Buffet – đã có nhận xét rất đáng chú ý: “Bill Gates cực kỳ thông minh. Nhưng khi ta nhìn toàn bộ bức tranh chứ không phải một phần riêng biệt nào đó thì Melinda hiển nhiên là vượt xa chồng. Nếu như Melinda không làm việc trong quỹ từ thiện của hai vợ chồng họ thì liệu tôi có trao tiền cho Bill không? Có lẽ không”.

Như vậy, điều kiện chủ yếu thúc đẩy Buffet chuyển giao tài sản chính là người vợ nhanh nhẹn, hiểu biết, thấu tình đạt lý của Bill Gates. Buffet đã khiến Bill phải thốt lên: “Melinda đúng là vận may lớn nhất cuộc đời tôi”.




Yêu thích cuộc sống bình lặng

Là vợ người thường xuyên giữ vị trí giàu nhất thế giới, Melinda không tránh khỏi những phiền toái của cuộc sống.

Dù cố gắng thế nào đi nữa, Melinda cũng rất khó khăn để có được cuộc sống bình thường. Nhưng đến nay, sau nhiều nỗ lực, người phụ nữ dịu dàng này vẫn có cách để cuộc sống của mình đi theo những quỹ đạo mong muốn.

Trước khi kết hôn với Bill Gates, Melinda cũng chịu nhiều áp lực từ khối tài sản đồ sộ này. Melinda luôn băn khoăn con người mải mê công việc và cạnh tranh thương trường của Bill Gates có thích hợp với cuộc sống gia đình hay không.

Câu hỏi: “Cái người có thể phát điên lên vì công việc này nếu làm chồng mình sẽ ra sao?” luôn quẩn quanh trong đầu Melinda.

Cuối cùng bà cũng nói thẳng điều này ra với Bill, rằng: “Nếu muốn em dọn đến ở cùng anh, anh cần phải tạo nên một ngôi nhà thực sự ấm cúng của gia đình giống như em tưởng tượng”.

Sau 6 tháng thảo luận, bàn bạc với vị hôn phu, Melinda đã đích thân thuê kiến trúc sư cải tạo khu nhà ở 3.700m2. Đến nay, cứ cuối tuần Melinda đều cho đội ngũ làm thuê trong tư gia nghỉ, để gia đình có thể trải qua những giây phút quây quần bên nhau như những gia đình bình thường khác.

Có 3 con, điều đáng ngạc nhiên là chính Melinda đã tuân thủ các quy định nuôi con bằng sữa mẹ như các bác sĩ khuyến cáo.

Trong việc nuôi dạy bọn trẻ, Melinda cũng khuyến khích các con tự lập và làm việc chăm chỉ. Bà cũng tranh thủ đưa các con đi cùng trong các chuyến đi từ thiện để vừa rèn luyện sức khỏe, vừa mở rộng tầm nhìn về thế giới cho chúng.

Melinda và Bill cũng thống nhất trong việc để dành thừa kế cho các con. Sẽ không quá 5% tài sản của họ sẽ trở thành tiền thừa kế của 3 con, còn khối tài sản khổng lồ còn lại sẽ trở thành khoản đầu tư từ thiện với mong muốn sẽ đem lại lợi ích cho nhiều người hơn nữa.

Thực ra, ban đầu Bill và Melinda thậm chí không muốn để lại tài sản gì cả nhưng người bạn thân Buffet đã khuyên :

“Một người có rất nhiều tiền nên để lại cho con cái họ đủ số tiền, để chúng thực hiện ước mơ của mình, nhưng cũng không được nhiều đến mức, chúng không muốn làm gì nữa”.

Không thích mua sắm, ghét những nhãn hàng xa xỉ và chỉ trang điểm nhẹ nhàng, Melinda vẫn giữ được vẻ đẹp trẻ trung suốt những năm qua.

Một trong những bí quyết của bà là luyện tập thể thao đều đặn. Melinda đã tập chạy marathon từ gần 15 năm qua, thậm chí còn tham dự cả giải Seattle Marathon.

Dù bận rộn đến mấy, mỗi tuần bà cũng có một cuộc chạy việt dã, trong 1 giờ vượt qua 11km. Việc Bill tham gia chạy trong 2 năm trở lại đây cũng là do Melinda khuyến khích và thôi thúc.

Sưu tầm

Friday, October 31, 2014

NGƯỜI VIỆT TRẺ TỰ ĐỐT ĐUỐC MÀ ĐI

NGƯỜI VIỆT TRẺ TỰ ĐỐT ĐUỐC MÀ ĐI

Nhiều người trẻ đã vô tình đánh mất tài sản quý giá nhất của mình. Đó là tuổi trẻ. Những vật lộn và toan tính đời thường đã quật ngã họ. Ý niệm về một sức trẻ dũng mãnh, một tinh thần tự do bay bổng, giờ đây bỗng trở thành xa lạ. 

Thời gian gần đây, tôi cùng với nhiều người bạn có những trao đổi về tương lai của Việt Nam trong cơn gian khó: trong đất liền thì lạm phát cao, kinh tế khó khăn, sức sản xuất giảm, doanh nghiệp phá sản hàng loạt. Ngoài biển Đông thì Trung Quốc liên tục gây căng thẳng, gia tăng tranh chấp không chỉ với Việt Nam mà còn cả khu vực.

Nhìn xa hơn sang các nước Âu – Mỹ, tình hình cũng không sáng sủa hơn bao nhiêu. Châu Âu vẫn ngập trong khủng hoảng. Một số nước nếu chỉ năm ngoái thôi còn được coi là vững vàng, như Pháp chẳng hạn, thì sang năm nay, đã bị nhiều chuyên gia coi là một “quả bom hẹn giờ” mới.

Trước tình hình đó, nhiều người đã rất bi quan. Nhiều lúc chúng tôi có cảm giác, sự bi quan chán nản đã rút hết sinh khí của ngay cả những người được coi là từng trải và vững vàng nhất. Nhưng với riêng tôi, cảm thức bi quan chưa bao giờ là chủ đạo bởi thay vì nhìn mãi vào bức tranh màu xám, tôi nhìn vào những người Việt trẻ.

Tôi tin vào sức trẻ. Tôi tin đó là tài sản lớn nhất của dân tộc. Và tôi tin, chính tuổi trẻ chứ không phải các lý thuyết kinh tế xã hội kinh điển và nhiều tranh cãi, hay những lý tưởng khuôn sáo đã không còn sức sống, sẽ là cứu tinh của đất nước.

Tôi đi tìm tương lai của đất nước trên khuôn mặt những người Việt trẻ.

Có những ngày, tôi dành hàng giờ để quan sát những người trẻ tuổi, nghe họ nói, họ cười, họ đi lại, họ tranh cãi, họ thở dài… Ở hai đầu đất nước, và ở cả những nơi khác mỗi khi tôi có dịp. Tôi quan sát họ trong quán nước vỉa hè, trước cổng trường đại học, giữa đám tắc đường trên phố, trên mạng xã hội, trong các buổi nhóm họp tán gẫu…

Những quan sát này mách bảo tôi điều gì? Có phải người Việt trẻ không có lý tưởng? Có phải người Việt trẻ không có hoài bão lớn? Có phải người Việt trẻ không còn yêu nước? Có phải người Việt trẻ đang ngày càng vô cảm? Có phải người Việt trẻ đang ngày càng ích kỷ và thực dụng?

Tôi không phán xét. Tôi chỉ quan sát.

Không. Tôi không thấy như vậy. Tôi thấy họ đang sống. Họ đang sống theo cách của họ và giao tiếp bằng thứ ngôn ngữ của họ. Cách sống này, thứ ngôn ngữ này, có thể xa lạ với nhiều người có tuổi, nhưng không thể coi đó là không tốt, là đáng lo ngại.

Tôi chỉ có thể ghi nhận và tôn trọng họ.

Họ đang sống, đôi khi hết mình, đôi khi dật dờ, đôi khi chao đảo. Nhưng chắc chắn là họ đang sống. Mà tôi tin rằng, ở đâu có sự sống thì ở đó có sự phát triển.

Chính vì vậy mà tôi không bi quan.

Tôi cũng không quá hân hoan. Vì đằng sau những gương mặt trẻ trung kia, ẩn sau bộ tóc xanh đen kia, có thể là những trống rỗng, những đổ vỡ và hoang mang mà người ngoài không thể hiểu hết được. Những lo toan thường ngày có thể quật ngã họ bất cứ lúc nào. Giữa bộn bề của khó khăn chung, người trẻ và người nghèo bao giờ cũng bị ảnh hưởng lớn nhất vì thiếu vị thế và không được tôn trọng đúng mức.

Nhưng tôi lo lắng, đôi khi đến mức dằn vặt, thậm chí cáu bẳn vì cảm giác bất công và bất lực. Trong số những người Việt trẻ tôi gặp thì phần đông là sinh viên, tức thành phần ưu tú của đất nước, nhưng tôi không thấy một sự rực rỡ hiện lên trên khuôn mặt, trong ánh mắt, trong sự tự tin quả cảm. Tôi không thấy được sự lan tỏa của một tuổi trẻ tự do phóng khoáng, sự rực sáng của khát vọng.

Rất ít lửa trong những đôi mắt.

Rất nhiều lảng tránh xa xôi.

Rất dài những tiếng thở.

Rất thường xuyên cam chịu.

Và rất ít ngọn đuốc trên những con đường.

Tôi đã đi qua một rừng sinh viên trong ngày hội “Sáng tạo vì khát vọng Việt” ở TP HCM. Tôi đã nhìn sâu vào những gương mặt trẻ mà tôi gặp. Cảm giác đau nhói vì có quá nhiều khuôn mặt sạm đen, tuy chưa đến mức tiều tụy nhưng thiếu sắc khí. Tôi nhìn một người, rồi nhìn mọi người, cảm giác mặn chát vì thấy quá nhiều người trẻ gầy gò ốm yếu. Nhiều người còn còi cọc hơn cả thế hệ chúng tôi khi đất nước đang trong thời bao cấp khó khăn, còi cọc hơn cả thế hệ trước tôi khi đất nước đang trong chiến tranh. Tôi chợt nghĩ: suy dinh dưỡng?

Suy dinh dưỡng giữa thời bình! Tôi tự hỏi vì đâu? Tôi không tin đó là vì họ thức khuya học nhiều. Tôi cũng không tin đó là vì chủng tộc hay khí hậu vùng miền. Những sinh viên Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… mà tôi gặp đều học hành chăm chỉ dữ dội, chủng tộc và khí hậu cũng tương tự như mình, nhưng đôi má họ căng phính, giọng nói và ánh mắt đầy vẻ tự tin. Chiều cao cân nặng của họ cũng đều vượt xa những sinh viên tôi đang trò chuyện trong sân Dinh Thống Nhất này.

Tôi hỏi họ vì sao?

Tụi em khó khăn.

Khó khăn với cả chuyện ăn uống hàng ngày?

Vâng…

Tôi và họ không còn dám nhìn vào mặt nhau nữa. Không xa xôi nhưng ngăn cách bởi một chông chênh. Bảng lảng xa xôi. Nỗi đau riêng người ta chỉ có thể cảm hiểu chứ không thể xoáy mãi vào.

Tôi lắng nghe lòng mình. Có một cái gì rất vô lý ở đây. Có thể gọi đó là sự bỏ rơi chăng? Nhiều người đã bị bỏ rơi, tự bươn chải để tự đánh vật với những nhu cầu tối thiểu hàng ngày. Sự bươn chải này nhiều khi làm họ kiệt sức.

Ngoài hội trường, có bạn tìm mọi cách gặp tôi chỉ để hỏi một câu: Em muốn trở thành doanh nhân, vậy thì em phải quan tâm đến loại người nào nhất? Tôi thoáng sửng sốt trước câu hỏi đó. Dù không phải là doanh nhân, tôi cũng trả lời ngay lập tức: Doanh nhân thì cần quan tâm đến khách hàng nhất.

Trong hội trường, có bạn trẻ bật khóc vì không tìm được việc làm thêm. Có quá ít cơ hội dành cho người trẻ tuổi. Cảm giác bất lực và bị bỏ rơi hiện lên rất rõ. Rất nhiều bạn trẻ đã hoàn toàn đánh mất sự tự tin vào bản thân mình. Ý niệm về một đời sống trẻ tuổi sung mãn đầy hoài bão hoàn toàn vắng bóng.

Tôi chợt nhớ đến những buổi tranh luận với bạn bè quốc tế, khi tôi cho rằng không nên quá bi quan: Việt Nam là một đất nước trẻ. Tuổi trung bình của toàn dân chưa đến 30. Hãy nghĩ xem, trước 30 tuổi thì người ta làm gì? Người ta khám phá và hừng hực sức sống. Người ta sống. Và khi người ta sống thì người ta phát triển. Vì thế không nên quá bi quan.

Nhưng lúc này đây, giữa quảng trường này, lập luận của tôi dường như đã bị lung lay. Khi người ta trẻ và bị bỏ rơi, người ta mất hết tự tin thì không chắc người ta đã sống. Họ chỉ đơn giản là đang tồn tại. Khi người ta bị bỏ rơi và mất tự tin, không chắc người ta sẽ khám phá và hừng hực sức sống. Người ta cũng sẽ mệt mỏi, chán nản và tiều tụy như thường.

Người Việt trẻ nhưng không hẳn là trẻ. Tôi đã nhìn thấy sự mệt mỏi và chán nản trên gương mặt họ. Tôi đã nhìn thấy sự tiều tụy trong cơ thể họ. Tôi mong đợi một sức sống hừng hực, một tinh thần phóng khoáng bay bổng, một sự tò mò tươi mới, một bạo dạn dấn thân. Nhưng điều tôi thấy lại quá ít so với trông đợi.

Có một cái gì đó thiếu vắng ở đây. Có một cái gì đó như bị bóp nghẹt không thoát ra được. Một cảm giác như bất lực, như hờn trách, như dằn dỗi dâng trào.

Nhiều người trẻ đã vô tình đánh mất tài sản quý giá nhất của mình. Đó là tuổi trẻ. Những vật lộn và toan tính đời thường đã quật ngã họ. Ý niệm về một sức trẻ dũng mãnh, một tinh thần tự do bay bổng, giờ đây bỗng trở thành xa lạ.

Lỗi tại ai? Không hẳn là lỗi của những người trẻ tuổi. Nhưng chắc chắn là lỗi một phần của những người đi trước, của hệ thống, của xã hội, đã phần nào bỏ rơi họ.

Câu chuyện của người Việt trẻ chính là câu chuyện của đất nước. Vì tuổi trẻ không phải là một tương lai xa xôi, mà chính là hiện thực của đất nước này. Hiện thực ở đây và ngay lúc này đây. Gương mặt của người trẻ chính là gương mặt của đất nước. Khi tuổi trẻ bị bỏ rơi thì cũng chính là đất nước bị bỏ rơi. Khi tuổi trẻ bỗng nhiên trở nên già nua mệt mỏi thì cũng chính là đất nước đã trở nên già nua mệt mỏi.

Không gì đáng sợ hơn tuổi trẻ mỗi ngày mỗi trở nên tiều tụy. Không gì xót xa hơn khi nhìn thấy những người Việt trẻ ốm yếu còi cọc hơn so với bạn bè đồng lứa năm châu. Với sức vóc đó, với tinh thần đó, đòi hỏi họ phải gánh vác giang sơn, đưa đất nước đến bến phồn vinh là một đòi hỏi quá lớn và quá vô lý. Vì thế, những người đi trước, những người hữu trách trong hệ thống công quyền, cần thiết nhìn lại xem mình đã làm được gì cho người trẻ, trước khi đặt lên vai họ những gánh nặng quá lớn như vậy.

Đất nước cần vượt lên. Vì thế, với người Việt trẻ, một cuộc vượt lên chính mình là cần thiết. Khi còn mò mẫm trong sáng tối, khi còn chao đảo giữa muôn vàn xô đẩy của cuộc đời, thì không còn cách nào khác là phải tự đốt đuốc cho mình, phải tự mình vạch đường mà tiến bước.

Sức trẻ là tài sản quý giá nhất mà mỗi người đang nắm giữ. Vậy thì đừng bỏ phí nó.

Hãy sống.

Hãy sáng tạo.

Hãy bay bổng.

Hãy tò mò khám phá.

Hãy cất bước dấn thân.

Hãy tin vào bản thân mình.

Hãy vun đắp những khát vọng lớn.

Hãy xây dựng cho mình hình ảnh về một con người tự do và một công dân.

Vì không phải ai khác, mà chính người Việt trẻ mới là cứu tinh của đất nước.


Giáp Văn Dương

Học như thế nào


Ngày xưa để học được chữ thánh hiền, cái quan trọng nhất là cần có chí. Cái chí để đi bắt đom đóm bỏ vào lọ làm đèn mà đọc sách thâu đêm. Trong công việc học tập bây giờ, trong việc tiếp thu kiến thức khoa học của nhân loại tưởng như vô hạn, chỉ có chí thôi chắc là không đủ.

Ngôn ngữ và thái độ khoa học 

Nếu bản năng hướng thượng, hướng thiện là động cơ của học tập, nó không phải là công cụ. Con người biểu đạt sự hiểu biết về thế giới khách quan bằng lời. Con người thụ hưởng vốn hiểu biết mà nhân loại tích tụ được thông qua ngôn ngữ. Có hai thái độ ứng xử với ngôn ngữ đối lập nhau, dẫn đến hai phương pháp tư duy đối lập nhau: một bên là thái độ tôn giáo, coi ngôn từ như đối tượng để tôn thờ, một bên là thái độ khoa học, coi ngôn từ như một công cụ để định hình tư tưởng.

Định nghĩa chữ Đạo trong Đạo Đức Kinh là điển hình của thái độ tôn giáo đối với ngôn từ. Đạo được mô tả như thế này, như thế kia, Đạo không phải là thế này, không phải là thế kia, nhưng không một lần Đạo được định nghĩa là cái gì. Đạo là một từ đại diện cho một khái niệm linh thiêng không định nghĩa được, người ta chỉ có thể biết thuộc tính của nó là như thế này, như thế kia, cùng lắm là biết nó không phải là cái gì, tức là hạn chế khái niệm bằng phủ định, chứ không thể nói nó là cái gì, tức là định nghĩa khái niệm bằng khẳng định. Tính linh thiêng của chữ Đạo nằm chính ở chỗ ta không thể định hình được nó.

Tôi dẫn ví dụ Đạo Đức Kinh không với ý muốn đánh giá thấp giá trị triết học của tác phẩm này. Tôi chỉ muốn chỉ ra sự đối lập với giữa thái độ tôn giáo của nó đối với ngôn ngữ và thái độ khoa học. Thái độ tôn giáo với ngôn ngữ đưa đến những luận điểm bao quát, trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc sống, con người cũng có thể vận dụng chúng để diễn giải những gì xảy ra với mình, và tự an ủi mình. Mà trên đời này, ai là người không cần được an ủi.

Đóng góp lớn nhất của văn hoá Hy lạp cổ đại cho tư duy loài người có lẽ là sự phát minh ra tháe;c là hình tròn cả, chỉ có những hình tròn gần đúng mà thôi. Các định nghĩa của Euclid chỉ có giá trị giới hạn trong phạm vi của hình học. Theo một nghĩa nào đó, hình học là một sản phẩm thuần tuý của trí tuệ, là một trò chơi của tư duy. Giá trị lớn nhất của trò chơi này nằm ở ngay trong sự hạn chế của nó. Vì luật chơi bao gồm một số tiên đề, và một số phép suy luận được quy định trước, một phát biểu hình học chỉ có thể hoặc là đúng, hoặc là sai, một chứng minh chỉ có thể là đầy đủ chặt chẽ hoặc là thiếu sót ngộ nhận. Đây là cuộc chơi mà tư duy logic của con người được tha hồ thi thố. Cho đến bây giờ nó vẫn giữ nguyên ý nghĩa đó. Để cho trẻ học được phương pháp lập luận chặt chẽ, không có gì tốt hơn là học hình học Euclid.

Ưu điểm của trò chơi tư duy mà trong các luật chơi được cố định trước là trong phạm vi của cuộc chơi này, mọi cái đúng cái sai đều rõ ràng. Ưu điểm quan trọng khác là con người có thể rút ra kết luận rõ ràng chi tiết từ hệ thống tiên đề và khái niệm, để rồi đem nó ra kiểm chứng, đối chiếu với quan sát thực tế.

Ở điểm này, thiên hướng của khoa học khiêm tốn hơn nhiều so với thiên hướng của tôn giáo. Những luận điểm của tôn giáo thường có tính khái quát cao, nhưng không có tính chi tiết để có thể kiểm chứng đối chiếu được qua các quan sát thực tế. Trong mọi trường hợp tôn giáo yêu cầu người ta phải tin và phải chấp hành. Ngược lại, lý thuyết khoa học đưa ra những luận điểm đủ cụ thể để có thể kiểm chứng với thực tế và dành cho thực tế quyền phán xét cuối cùng. Sự khiêm tốn, luôn đặt mình vào vị trí để cho thực tế phán xét, hoặc khẳng định, hoặc phủ nhận, theo Karl Popper chính là thuộc tính đặc trưng của khoa học, đối lập với tín điều.

Sự khiêm tốn này cũng chính là cái làm nên sức sống của khoa học. Tôn giáo sẽ chết khi con người không còn đặt lòng tin vào tín điều nữa. Còn trong bản chất của mình, luận điểm khoa học chấp nhận sự phủ định, nó như chỉ chờ được thực tế phủ định để hồi sinh, lột xác thành một lý thuyết khoa học mới, phức tạp hơn, có phạm vi ứng dụng rộng hơn lý thuyết cũ.

Trong bản chất, mọi lý thuyết khoa học chỉ mô tả được một phạm vi nào đó của thế giới, lý thuyết càng thô sơ thì phạm vi áp dụng của nó càng hẹp. Đi ra ngoài phạm vi đó là bắt đầu một cuộc chơi mới, con người lại phải sáng tạo một hệ thống ngôn ngữ, khái niệm mới, tìm ra một luật chơi mới. Nhưng không phải vì thế mà lý thuyết cũ nhất thiết phải bị thủ tiêu khi một lý thuyết mới ra đời. Trong phạm vi cuộc sống hàng ngày, khi các vật thể chuyện động chậm hơn nhiều so với ánh sáng, cơ học Newton vẫn đúng.

Người đi tìm hiểu thế giới gần như bắt buộc phải đi lại gần như toàn bộ hành trình tìm hiểu thế giới của loài người. Đây là cái khó khăn rất lớn. Đã có một số quan điểm sai lầm trong giáo dục muốn bỏ qua những lý thuyết khoa học trước đây để đưa học sinh đến với những lý thuyết tiên tiến nhất. Ở phương tây những vào những năm 70 đã có trào lưu xây dựng lại toàn bộ giáo trình toán học dựa theo cách trình bày toán học hiện đại của nhóm Bourbaki. Kết quả của thí nghiệm đại trà này không tốt. Cảm nhận chung là trình độ toán học của học sinh tốt nghiệp phổ thông kém đi nhiều.

Gần đây, con lắc cực đoan có vẻ như bị văng theo hướng ngược lại. Người ta muốn lược đi khỏi chương trình tất cả những gì được coi là không cần thiết cho cuộc sống hàng ngày. Tôi vô cùng ngạc nhiên bởi ý kiến của một vị Giáo sư cho rằng học sinh không cần học vi phân, tích phân vì hàng ngày có ai cần dùng đến vi phân, tích phân đâu. Nhưng chính là nhờ vào thiên tài của Newton và Leibnitz, các hiện tượng tự nhiên được mô tả một cách tường minh dưới dạng phương trình vi phân. Loại bỏ đi đạo hàm tích phân có khác gì tự nguyện quay lại với tư duy mơ hồ của siêu hình trung cổ.

Vấn đề không phải đem những kiến thức khoa học tiên tiến nhất đến cho học sinh, vì có muốn cũng không làm được. Vấn đề cũng không phải là tập trung rèn luyện cho học sinh kỹ năng tính toán để phục vụ cho những nhu cầu hàng ngày. Cái cần làm trang bị cho học sinh phương pháp tư duy khoa học: định hình rõ nét khái niệm, liên hệ những khái niệm đó với thế giới khách quan, biết lập luận, biết tính toán để đưa ra những luận điểm cụ thể, kiểm chứng những luận điểm đó với thế giới khách quan.

Còn một thuộc tính khác của một khoa học có sức sống là khả năng đem đến sự bất ngờ. Hình học Euclid không còn khả năng đưa ra những khẳng định bất ngờ nào nữa và theo nghĩa này, nó là một môn khoa học chết. Nó chỉ còn là một trò chơi trí tuệ để học sinh rèn luyện khả năng tư duy logic. Nhận định của Einstein rằng tia sáng bị uốn cong khi đến gần các vật thể có khối lượng lớn nhờ vào những tính toán trong lý thuyết tương đối là một bất ngờ khi trong hình dung của chúng ta, đường thẳng là đường truyền của ánh sáng. Sức sống của một bộ môn khoa học thể hiện ở chỗ từ một hệ thống khái niệm, tiên đề chấp nhận được, bằng tính toán và lập luận, người ta có thể đưa ra những giải thích chưa biết cho những hiện tượng đã biết, hoặc là tiên đoán về những hiện tượng chưa được biết đến.

Khi khoa học “nhận nhiệm vụ” diễn giải, chứng minh cho một luận điểm cho trước, để phục vụ một mục đích chính trị hoặc tôn giáo, bất kể mục đích đó tốt hay xấu, về mặt thực chất khoa học đã mất đi cái làm nên sức sống của nó. Vấn đề “nhận nhiệm vụ” ảnh hưởng nhiều đến khoa học xã hội hơn là khoa học tự nhiên. Như một số người đã nhận xét, ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ, các ngành khoa học tự nhiên có thể rất phát triển trong khi các ngành khoa học xã hội để lại rất ít dấu ấn vào văn minh nhân loại. GS Hà Huy Khoái có lần phát biểu nửa đùa nửa thật “Thực chất, ở Việt Nam chưa có khoa học xã hội”. Phát biểu của ông đã gây ra những phản ứng khá dữ dội. Nói một cách khách quan hơn, nó có đấy, nhưng nó yếm khí và thiếu sức sống.


Học như thế nào?

Ngày xưa để học được chữ thánh hiền, cái quan trọng nhất là cần có chí. Cái chí để đi bắt đom đóm bỏ vào lọ làm đèn mà đọc sách thâu đêm. Trong công việc học tập bây giờ, trong việc tiếp thu kiến thức khoa học của nhân loại tưởng như vô hạn, chỉ có chí thôi chắc là không đủ.

Như tôi vừa trình bày ở trên, khoa học không bị cái bệnh tự phụ coi những luận điểm của mình đúng một cách tuyệt đối, đúng một cách phổ quát. Mỗi lý thuyết khoa học được khai triển bằng tính toán, bằng lập luận từ một số nhỏ khái niệm, một số tiên đề cơ sở. Mỗi lý thuyết có logic nội tại của nó, nó không tự mâu thuẫn, nhưng những kết luận mà người ta rút ra từ nó chỉ khớp với thực tế khách quan trong một phạm vi nào đó. Theo một nghĩa nào đó, mỗi lý thuyết là một trò chơi trí tuệ, với luật chơi được xác định rõ ràng mà trong đó người chơi có thể triển khai khả năng tư duy của mình để đi đến những kết quả nhiều khi nằm ngoài sự mong đợi ban đầu.

Rất ít khi người ta chơi trò gì một mình. Để cho cuộc chơi thực sự cuốn hút, để cho người chơi có thể thực sự triển khai mọi tiềm năng tư duy của mình để đi đến những kết quả bất ngờ, đi đến sáng tạo, cuộc chơi phải có bạn chơi và phải có trọng tài. Để minh hoạ quan điểm này, tôi xin đưa ra một gợi ý nhỏ, nhưng rất nghiêm túc.

Nhờ vào internet, hiện tại người ta có thể tìm được miễn phí rất nhiều tài liệu học tập miễn phí ở trên mạng. Một số trường đại học có tên tuổi như MIT, Stanford còn tổ chức công bố miễn phí hầu hết các tư liệu học tập. Thay bằng việc phải bỏ ra 50 ngàn đô-la một năm để đến đó học, mà không phải cứ có 50 ngàn đô-la là đã được nhận vào học, bạn có thể truy cập miễn phí các tư liệu học tập, theo dõi các bài giảng video. Vậy có đúng là bạn cứ ngồi ở Hà nội, hay Sài gòn, là cũng có thể học như sinh viên ở MIT hay ở Stanford hay không.

Tôi nghĩ rằng trừ khi bạn có một ý chí sắt đá, dù có được cung cấp tất cả mọi tài liệu trên đời, dù dược theo dõi miễn phí các bài giảng, ở nhà một mình bạn vẫn không thể học được. Bởi vì ngồi theo dõi bài giảng trên mạng một mình không phải là một cuộc chơi thú vị: không có địch thủ, không có đồng đội, không có lộ trình, không thấy mục tiêu, không thấy giải thưởng. Đó là những thứ không liên quan trực tiếp đến nội dung khoa học của bài giảng nhưng đó là cái mà người đi học cần để phấn đấu liên tục. Học một mình, bạn có thể tập trung cao độ trong một hai ngày cho đến một tuần. Nhưng bạn cần có tập thể, có lớp học, có thầy giáo để duy trì nỗ lực học tập.

Gợi ý của tôi là tại sao các bạn không tự tổ chức cùng học theo giáo trình được cung cấp trên mạng. Tại sao không thể dùng trực tiếp bài giảng, tư liệu học tập cung cấp miễn phí trên mạng trong các lớp học chính khoá. Các thầy không nhất thiết phải giảng cả buổi nữa, mà có thể cho sinh viên xem bài giảng trên mạng, có thể làm trước phụ đề tiếng việt, sau đó dành thời gian để giải thích thêm, trả lời câu hỏi của sinh viên, và hướng dẫn làm bài tập. Và cuối cùng là tổ chức thi cử nghiêm túc. Tất nhiên gợi ý thì dễ, mà làm thì khó, nhưng tôi không tin là việc này không thể làm được. Kinh phí để tổ chức lớp học như thế có lẽ là không nhiều lắm, nếu so sánh với học phí 50 ngàn đô la một năm ở MIT hay Stanford.

Với gợi ý có tính suy tưởng này, tôi hy vọng làm nổi lên được sự quan trọng của việc tổ chức học tập. Học tập là một hoạt động tập thể và có tổ chức. Như đã nêu ở trên, thiếu một tập thể có tổ chức, con người nói chung không có khả năng duy trì nỗ lực của mình trong một thời gian dài. Thiếu tranh biện con người nhanh chóng lạc vào con đường chủ quan, con đường luôn dẫn đến cái đích là sự bế tắc. Bản tính con người là hiếu thắng, cái cần thiết để tạo ra sự sôi động trong tranh luận, những cũng là cái làm hỏng cuộc tranh luận, biến nó thành chiến trường để người này đè bẹp người kia. Vì vậy trong mọi cuộc chơi tập thể cần có một luật chơi lành mạnh để cho sự cạnh tranh chỉ tạo ra nỗ lực để mỗi người vượt lên chính mình, chứ không phải là cái cớ để thỏa mãn bản năng hiếu thắng. Và cuộc chơi cần một người trọng tài, nắm vững luật lệ và có thẩm quyền điều khiển cuộc chơi. Ngoài ra, chính những ràng buộc của luật chơi bắt người chơi phải vươn tới sự sáng tạo thực sự.

Tôi để ý thấy người ta phá bỏ luật chơi dễ dàng quá. Tôi xin dẫn một ví dụ nhỏ là việc viết thư giới thiệu. Viết thư giới thiệu là một công việc khá vất vả mà lại không thể mong đợi phần thưởng gì khác ngoài cảm giác hoàn thành bổn phận. Để giới thiệu cho một đồng nghiệp vào một vị trí phó giáo sư, hay giáo sư, thường thì người giới thiệu phải tìm hiểu kỹ công trình của người mình giới thiệu để chỉ ra chỗ nào hay, chỗ nào đặc sắc, chỗ nào thì cũng chỉ bình thường, và nêu ra ý nghĩa chung của công trình. Không viết được đầy đủ nội dung như vậy, thì lá thư giới thiệu không có mấy trọng lượng, mà người viết thư giới thiệu lại có thể bị đánh giá, hoặc là về sự nghiêm túc, hoặc là về trình độ. Viết thư là một việc rất vất vả, mà không có ai khen ông này ông kia viết thư giới thiệu rất hay, vì trên nguyên tắc thư giới thiệu được giữ bí mật. Tóm lại, viết thư giới thiệu là một việc vất vả, không có bổng lộc, nhưng lại cần phải làm để ủng hộ một người đồng nghiệp xứng đáng, hoặc chỉ đơn thuần là để thực hiện bổn phận của mình. Viết thư giới thiệu cho sinh viên cũng mất công, nhưng không vất vả như viết thư giới thiệu cho đồng nghiệp.

Có một lần, một sinh viên mà tôi đã từng dạy ở Hà nội nhờ tôi viết thư giới thiệu. Khi tôi còn đang do dự vì tôi đánh giá bạn ấy không thực sự xuất sắc, thì anh ta gửi cho tôi một bức thư giới thiệu soạn sẵn để tôi chỉ việc ký vào đó. Khi tôi tỏ ra vô cùng ngạc nhiên về cách làm này, thì bạn ấy trình bày là các thầy giáo khác yêu cầu bạn ấy làm như thế. Một số người có thể coi đây là việc nhỏ, nhưng tôi nghĩ chính từ những chuyện nhỏ như thế sẽ làm tha hoá cả hệ thống.

Khi chuẩn bị bài nói chuyện này, ý định của tôi là chia sẻ những suy nghĩ tản mạn của mình về việc học tập, chứ không định phê bình ai cả, càng không có ý định phê bình nền giáo dục ở nước ta. Đã có nhiều người chỉ ra rất nhiều bất cập, tôi không thấy cần thiết phải hoà thêm tiếng nói của mình vào đó. Nhưng nếu chỉ nêu ra một vấn đề, vấn đề lớn nhất, thì theo tôi đó là mức độ tha hóa của hệ thống.

Xin quay lại sự kiện Đồi ngô mà các bạn đều đã biết cả. Đây là một sự kiện vô cùng đặc biệt, vì chuyện thí sinh quay phim giám thị vi phạm qui chế thi là điều chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại. Đây là một câu chuyện rất buồn, nó phải là tiếng chuông cảnh tình về mức độ tha hoá của hệ thống. Hãy khoan quy trách nhiệm cho một cơ quan, một cá nhân nào mà hãy bình tâm suy nghĩ. Để cho một việc như vậy xảy ra, phải có nhiều người từ trung ương đến địa phương, ở trong và ngoài ngành giáo dục, đã không tôn trọng luật chơi. Kết quả là kỳ thi tốt nghiệp, cái đáng ra phải là một thủ tục mang tính nghiêm cẩn, phải là một cái mốc thiêng liêng cho cả quá trình lao động học tập của học sinh, lại trở thành một trò đùa, một trò đùa làm chúng ta muốn khóc.

Nước Mỹ có thể tự hào về những trường đại học của mình. Các đại học ở Mỹ thường là tương đối trẻ, trường đại học Chicago nơi tôi làm việc cũng mới khoảng 100 tuổi, đồng niên với Đại học quốc gia Hà nội. Có lẽ cũng phải trả lời câu hỏi, cái gì là “bí quyết thành công” của họ. Vào thời điểm hiện tại thì ta có thể nói rằng lý do thành công của họ là họ rất giàu, có nhiều giáo sư giỏi, có cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại. Nhưng nói như thế là nhầm lẫn giữa kết quả và nguyên nhân. Ban đầu, họ không giàu, mà cũng không có nhiều người thực sự xuất sắc nếu so với cái trường đại học ở châu Âu vào cùng thời. Tuy không có một câu trả lời duy nhất, nhưng một nguyên nhân chắc chắn được nhắc đến là tinh thần fair-play, mọi hành vi ăn gian đều bị trừng trị một cách vô cùng nghiêm khắc.

Tôi cho rằng sự trung thực là một hành vi khó mà học được từ trong sách vở. Để trẻ học được tính trung thực, trước hết người lớn cũng phải học tính trung thực, để tự biết mà làm gương.

Tôi đã nói nhiều về sự cần thiết của việc tổ chức học tập, tính kỷ luật và tính trung thực. Nhưng bạn có thể thắc mắc rằng tại sao tôi nói về trường học mà cứ như là nói về doanh trại quân đội.

Tính kỷ luật và trung thực tất nhiên là không đủ. Cái còn thiếu chính là “niềm say mê” mà tôi nhắc đến lúc bắt đầu. Say mê đi tìm cái mới, cái chưa biết, tìm lời giải thích cho những gì còn chưa hiểu. Niềm say mê đi từ đâu đến? Thú thực là tôi không biết chắc chắn, và vì thế mà tôi giả sử rằng con người sinh ra với một bản năng hướng thượng, nói cách khác là đã có sẵn trong mình mầm mống của niềm ham mê. Tôi nghĩ rằng thực ra câu hỏi niềm ham mê sinh ra từ đâu không quan trọng bằng làm thế nào để gìn giữ niềm ham mê, và không để cho nó bị tha hoá. Niềm đam mê, tính hướng thượng hướng thiện là động cơ cho việc học tập, và chính việc học tập đích thực là cái nuôi dưỡng sự hướng thượng hướng thiện bởi những giá trị nhân văn chân thiện, chân mỹ, bởi tình yêu sự thật, và bởi niềm hạnh phúc của sự khám phá, để vượt qua biên giới giữa những gì đã biết và những gì chưa biết.

Một người bạn tôi có góp ý với tôi rằng bên cạnh niềm ham mê, đừng quên bổ sung sự quả cảm. Sự quả cảm là cái bạn cần để không để lười biếng, hèn nhát dụ dỗ mà quay lưng lại với sự thật. Sự quả cảm cũng là cái bạn rất cần khi đi tìm cái mới. Bạn có tập thể, có đồng đội để cùng học tập, tiến bộ. Nhưng dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy rằng khi đã vượt qua biên giới của những gì đã biết để thực sự đuổi theo cái chưa biết, bạn rất cần tính quả cảm vì đi tìm cái mới thường là một hành trình cô đơn, và nó có thể kéo dài nhiều năm.

Theo Hocthenao.com

Web cổ điển đang chết dần

Web cổ điển đang chết dần và sự trỗi dậy của xu hướng mạng xã hội

Từ khi thế giới web cũ bắt đầu thoái trào, thì thế hệ web xã hội hoá mới đã mở rộng và đem tới cho người sử dụng những sự thay đổi giúp khoảng thời gian online trở nên hiệu quả, tiết kiệm thời gian và thú vị hơn.

Cứ mỗi tuần, một bản báo cáo về sự phát triển của thế giới internet lại được rất nhiều tờ báo điện tử cũng như blog thông tin trên mạng internet cập nhật. Xu hướng phát triển hiện tại có vẻ rất ấn tượng: Lưu lượng sử dụng dịch vụ chia sẻ video trực tuyến đang bùng nổ với tỉ lệ phát triển hơn 45% mỗi năm. Thời gian người sử dụng những thiết bị di động kết nối internet đã tăng 28% so với năm 2010, trong đó khoảng thời gian này của những người dùng smartphone đã tăng gấp đôi. Và có lẽ quan trọng nhất, 90% người sử dụng internet tại Mỹ sử dụng tài khoản mạng xã hội. Tính trung bình mỗi tháng một người bỏ ra 4 tiếng để “chu du” và kết bạn trên các mạng xã hội như Facebook, Twitter hay LinkedIn.

Thế nhưng cả 3 xu hướng trên đều chẳng thể được coi là tin tức nóng hổi, khi những quỹ đầu tư mạo hiểm, những nhà phát triển web, hay thậm chí là những nhà marketing trong kỷ nguyên kỹ thuật số đều đang theo dõi chặt chẽ từng bước chuyển nhỏ của ba xu hướng này. Vậy chuyện gì đang xảy ra với phần còn lại của thế giới internet khổng lồ? Công bằng mà nói, thì thế giới web truyền thống đang thu nhỏ dần. Nếu bạn gỡ riêng cả 3 mảng hiện đang phát triển một cách chóng mặt ở trên để nhìn vào phần còn lại của thế giới internet, hẳn là bạn sẽ thấy một lỗ hổng rất, rất lớn. Khía cạnh mà đáng lẽ ra phải là mảng có sự phát triển nhanh và mạnh nhất, các trang web, lại đang “chết dần”.

Sau đây là một sự thật mà ít người biết đến từ tổ chức đánh giá trị trường mạng comScore: Nếu bạn tách riêng lưu lượng truy cập của Facebook và để sang 1 bên, thì tổng lưu lượng truy cập của phần còn lại của thế giới internet đã giảm đi 9% chỉ trong giai đoạn từ tháng 3/2010 đến tháng 3 năm nay. Và nếu bạn cộng gộp lại cả Facebook, thì tổng lưu lượng sử dụng mạng toàn cầu trên các thiết bị cố định (chủ yếu là máy tính cá nhân) vẫn giảm 3% cũng trong cùng khoảng thời gian này.

Tốc độ phát triển chóng mặt của mạng xã hội, và đặc biệt trong đó là Facebook, với 69% tổng thị phần, là không cần phải bàn cãi. Tuy nhiên vấn đề nảy sinh đó là Facebook cùng những mạng xã hội khác không hề đóng góp những bộ phận người dùng internet mới, mà đơn giản là họ lấy đi thị phần của những trang web còn lại.

Bỏ qua những mạng xã hội đang bùng nổ hiện nay, phần còn lại của thế giới internet đã có lúc được gọi là “tài liệu Web”, dựa trên cách những nhà phát triển tại Google cũng như nhiều công ty khác thiết kế trang web của họ theo kiểu những tập tài liệu đơn lẻ và kết nối chúng lại với nhau. Nhưng càng lúc, những trang web kiểu này càng nên được gọi là “Web có thể tìm kiếm”, dựa trên việc thông tin của những trang web này được kết nối với nhau chủ yếu dựa vào việc hiển thị những thông tin chung. Tuy nhiên, càng lúc hệ thống “web tìm kiếm” như thế này càng mất đi tính liên quan vốn có.

Trong năm vừa qua, thị phần người sử dụng Facebook tại Mỹ đã tăng với tốc độ từ 1 người sử dụng mới sau 13 phút, lên thành một người sử dụng mới chỉ sau có 8 phút! Tính chung lại, điều này có nghĩa là tổng thời gian mọi người truy cập những trang web “tài liệu” trong tháng 3 vừa qua đã giảm đi… 500 triệu giờ đồng hồ so với cùng kỳ năm ngoái. Nếu xét về khía cạnh kinh tế, thì ngành quảng cáo đã chịu thiệt hại khoảng 2,2 tỉ USD trong năm vừa qua.

Tạo nên một hệ thống Web mới, kết nối hơn
Sự thay đổi trong xu hướng sử dụng web đã làm không ít người thức tỉnh. Và thứ thay đổi thế giới web đang lỗi thời hiện tại đó là một cuộc sống số hoàn toàn mới, và kết nối chặt chẽ với nhau. Có lẽ bạn đã nghe được khái niệm này ở đâu đó trước đây. Rốt cuộc, thì mục đích của web vẫn không thay đổi, đó là “kết nối” những trang thông in với nhau bằng những đường link. Tuy nhiên bây giờ, “kết nối” sẽ mang ý nghĩa rộng hơn rất nhiều. Cụ thể hơn, web có thể kết nối mọi người lại với nhau, và kết nối này không chỉ dừng ở mức độ giữa 2 người, mà nó sẽ còn kết nối tất cả lại.

Và đây là ví dụ cho việc bạn sẽ kết nối trực tiếp với những người khác, thay vì kết nối với những trang web như thế nào: Web biết bạn là ai (thông tin cá nhân), nó đi cùng bạn mọi lúc mọi nơi (các thiết bị kết nối di động), phân loại những mối quan hệ của bạn (xã hội hoá), và đem lại nhiều thứ hơn thế nữa.

Nói tóm lại, hệ thống web xã hội hoá, kết nối chặt chẽ với nhau như vậy hết sức năng động và mang tính cá nhân nhiều hơn, trong khi web tài liệu chỉ chứa đựng những thông tin chung chứ không có tính xã hội hoá.

Web xã hội đối đầu với thế giới web cũ

Những lý do dẫn đến sự thay đổi của thế giới web trong thời điểm hiện tại hẳn là không chỉ gồm sự thâm nhập thị trường của smartphone, tốc độ truy cập mạng tăng cũng như tiên bộ của công nghệ.

Nhiều người đã tìm ra lý do chủ yếu dẫn đến sự thay đổi cơ bản trong cách con người sử dụng internet: Đó chính là yếu tố con người. Con người, hay cụ thể hơn là người sử dụng internet đang tự thay đổi thói quen truy cập mạng toàn cầu của mình, cũng như thay đổi cách internet ảnh hưởng tới cuộc sống của chính chúng ta.

Và như một điều tất yếu, thế giới web cũ đang trên đà tụt dốc, thay vào đó là chàng tân binh “web xã hội” mới và đầy sức sống. Cũng không cần phải nhấn mạnh những tác động của mục tiêu xã hội hoá tới những nhà phát triển web.

Trong vòng 1 thập kỷ vừa qua, những gì chúng ta thấy là sự trỗi dậy của gã khổng lồ mang tên Google và những dịch vụ đa phương tiện trên mạng internet (ảnh, nhạc, video, v.v…). Theo đó, những nhà phát triển web cố gắng tạo ra càng nhiều nội dung số với những từ khoá liên quan, sau đó gán chúng vào một công cụ tìm kiếm nhất định và mở rộng phạm vi hoạt động để dịch vụ của họ đến được với nhiều người sử dụng hơn. Thế nhưng mọi chuyện đang thay đổi theo chiều hướng hoàn toàn khác, với tốc độ rất nhanh.


Sự kết nối giữa con người với nhau

Những sự thay đổi chóng mặt đang diễn ra ở thế giới internet, cũng là những thứ được đề cập ở trên đây hoàn toàn không chỉ là sự thay đổi của những hệ thống máy móc. Nó còn thay đổi cả những mối quan hệ giữa con người với con người.

Giám đốc sản phẩm của Forbes, Lewis D’Vorkin đã nói về điều này khi ông cùng Alex Knapp nói về truyền thông “sống” và những mối quan hệ chung mới được tạo ra giữa tác giả và độc giả trên môi trường web mới. Đó là bước chuyển dịch từ những nội dung xuất bản cố định thành cuộc sống kỷ nguyên kỹ thuật số, nơi mọi người có thể tương tác và trao đổi với nhau dễ dàng hơn bao giờ hết.


Hướng tới một tương lai kết nối toàn diện

Một điều không thể phủ nhận đó là chúng ta vẫn còn đang ở trong giai đoạn đầu tiên của bước chuyển thế giới web. Thậm chí có thể những trang web được cho là “ăn khách” như Huffington Post, Wetpaint, cũng như tổng lưu lượng truy cập của Facebook, Twitter, YouTube và nhiều trang web khác sẽ chỉ chiếm một nửa lưu lượng truy cập toàn cầu trong tương lai.

Tuy nhiên, để bước chuyển này diễn ra suôn sẻ, yếu tố tài chính cũng như con người là vô cùng quan trọng. Từ khi thế giới web cũ bắt đầu thoái trào, thì thế hệ web xã hội hoá mới đã mở rộng và đem tới cho người sử dụng những sự thay đổi giúp khoảng thời gian online trở nên hiệu quả, tiết kiệm thời gian và thú vị hơn.

Thursday, October 30, 2014

BÉ GÁI VIỆT NAM 17 TUỔI TẠI ÚC ĐÃ SÁNG CHẾ RA NĂNG LƯỢNG ĐIỆN VÀ NƯỚC LỌC DI ĐỘNG.

BÉ GÁI VIỆT NAM 17 TUỔI TẠI ÚC ĐÃ SÁNG CHẾ RA NĂNG LƯỢNG ĐIỆN VÀ NƯỚC LỌC DI ĐỘNG.

Em Cynthia Sin Nga Lâm, 17 tuổi từ Australia, đã phát minh ra máy phát điện. Phát minh của cô là một hệ thống lọc nước mà không đòi hỏi một nguồn điện nào bên ngoài, nhưng thực sự nó tự tạo ra điện của riêng nó.
Thiết bị mà cô bé gọi là một Photocatalytic, hệ thống điện di động và nước sạch, hoặc gọi ngắn là H2Pro. Hệ thống nầy sản xuất cả năng lượng sạch và nước ngọt cùng một lúc.
Cô hy vọng rằng một ngày phát minh của mình có thể được sử dụng để đưa nước và điện cho người dân ở các vùng nghèo khó từ xa hiện đang phải vật lộn để truy cập đến các tiện nghi cơ bản.
Theo :http://www.trueactivist.com/teenager-invents-water-purifier-that-creates-electricity-with-no-external-power-source

Wednesday, October 29, 2014

600W PureSine Inverter

600W PureSine Inverter

Lang thang trên web thấy mấy bác China mới có con IC TDS2285, chế tạo với mục đích làm xương sống cho các Inverter puresine, chả biết nó thế nào. Có phải dòng vi xử lý, có phải nạp code gì cho nó không? Chả thấy các bác ấy đả động gì đến code, hay nó "cứng" hoàn toàn.

Các bác bên đó làm ầm ầm, đua nhau làm Inverter với đủ công suất bằng con TDS2285 này. Cấu trúc mạch đều là DC-DC ra 310V rồi qua cầu H được điều khiển bằng TDS2285 băm thành sine. Mạch có vòng lặp hồi tiếp để đảm bảo sine ra chuẩn, có các chế độ bảo vệ đầy đủ ngay trên TDS2285.

Cái trang này hướng dẫn rất chi tiết, có cả mạch nguyên lý, mạch in, vẽ trên protel. Thấy mà ham quá, khổ nỗi rặt tiếng tàu, dịch bằng google thì đọc như chuyện cười. Vì thấy ngon nên đặt hàng đã có bác nhận lời lấy hộ cho được 3 con TDS2285.

Em post lên đây với mong muốn những người quan tâm, yêu thích chế tạo sinewave Inverter, cùng nghiên cứu, học hỏi chế tạo thành công con PureSine Inverter này. Cùng tìm kiếm, chia sẻ linh kiện. Để người người làm Inverter, nhà nhà có Inverter. Click here to enlarge

Click here to enlarge

Click here to enlarge

Click here to enlarge

Click here to enlarge

Click here to enlarge


Mạch in và mạch nguyên lý vẽ trên Protel99.


Mạch nguyên lý tổng thể chạy với TL494:

Click here to enlarge

Nguồn: http://bbs.dianyuan.com/topic/574783

Bill Gates "có lỗi vì có nhiều tiền"?


Bill Gates "có lỗi vì có nhiều tiền"?

Bill Gates là người giàu nhất thế giới trong hơn hai thập kỷ qua và ông đang ngày càng giàu hơn. Trong một cuộc phỏng vấn, ông tiết lộ rằng mọi người nói ông nên cảm thấy xấu hổ, có lỗi vì “giàu như thế”.
Tuy nhiên, ông cũng trả lời rằng, nếu ông có cảm thấy có lỗi thì đó không phải là có lỗi vì khoản tiền ông có được mà là có lỗi về khoản tiền mà ông đã chi tiêu.
Bill Gates, người giàu trên thế giới
Bill Gates
Bill Gates kể rằng, khi mọi người nói “Bill Gates, ông nên cảm thấy có lỗi vì có nhiều tiền đến thế”, ông đã trả lời: “ồ, không phải là có lỗi vì tôi có nhiều tiền, mà tôi cho rằng cảm giác có lỗi (về một cái gì đó) thì đó chính là về cách tiêu tiền của tôi”.
Tuy nhiên, ông có vẻ không phải cảm thấy có lỗi về “cách tiêu tiền” của ông. Gates đã dành tặng hàng tỷ USD cho công việc từ thiện, cống hiến 38 tỷ USD cho tổ chức từ thiện của ông và khuyến khích các tỷ phú khác cùng cống hiến hầu hết số tiền họ có cho từ thiện, qua chương trình The Giving Pledge.
Nhưng đối với Bill Gates, dành tiền để làm từ thiện không phải là tất cả. Ông đã đóng góp tâm trí, suy nghĩ vào nhiệm vụ giải quyết một số khó khăn lớn nhất của thế giới như đói nghèo, tỷ lệ tử vong sớm ở trẻ em, nước sạch và nâng cao nền giáo dục.
Gates nghĩ trong khoảng 20 năm nữa, sẽ không còn các quốc gia thuộc thế giới thứ ba. Trong một bức thư gửi cho tổ chức từ thiện của mình, ông đã viết: “Tôi rất lạc quan về những gì tôi suy đoán. Đến năm 2035, sẽ hầu như không còn những quốc gia nghèo trên thế giới, theo định nghĩa về nghèo hiện nay của chúng ta. Và hầu hết các quốc gia sẽ trở thành những nước có mức thu nhập trung bình thấp hoặc giàu hơn”.
Theo ICTnews/Business Insider

Quốc hội thảo luận tình hình kinh tế-xã hội

Quốc hội thảo luận tình hình kinh tế-xã hội


Trước đó, trong ngày khai mạc kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã trình bày Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội năm 2014 và nhiệm vụ 2015.
Báo cáo khẳng định, trong bối cảnh có nhiều khó khăn thách thức của năm 2014, mặc dù vẫn còn không ít hạn chế yếu kém nhưng hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại đã đạt được những kết quả tích cực; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; chủ quyền quốc gia được bảo đảm; chính trị-xã hội ổn định; vị thế quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng lên.
Các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội mà Quốc hội đã đề ra cơ bản đạt được. Trong 14 chỉ tiêu kế hoạch năm 2014, dự báo có 13 chỉ tiêu đạt, vượt và 1 chỉ tiêu không đạt. Đây là sự nỗ lực, cố gắng rất lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Bước sang năm 2015, Chính phủ đặt mục tiêu: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6,2%; tốc độ tăng giá tiêu dùng khoảng 5%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu ở mức 5%; tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP 5%; tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng khoảng 30% GDP.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,7-2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%; tạo việc làm cho 1,6 triệu lao động; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 50%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 15%; số giường bệnh trên một vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 23,5 giường.
Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 90%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường 82%; tỷ lệ che phủ rừng 42%; tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh 85%; tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch 82%; tỷ lệ đô thị loại 3 trở lên có hệ thống thu gom và xử lý nước thải 16%; tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom 85%.
Để thực hiện các mục tiêu trên, Chính phủ xác định 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu là: Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ; phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên  tai và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí; tăng cường quốc phòng an ninh, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công tác thông tin truyền thông.
Chính phủ nhận định, năm 2015, bên cạnh những kết quả và chuyển biến tích cực, đất nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị đoàn kết nhất trí, quyết tâm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch năm 2015. Chính phủ mong nhận được sự ủng hộ, giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và đồng chí, đồng bào.
Bình Nguyên